Lịch sử hình thành Khu di tích Lịch sử - Văn hóa Nhà Lớn (Đền Ông Trần).
Ông Nhà Lớn (hay còn gọi là Ông Trần) tên thật là Lê Văn Mưu, sinh năm 1856 tại làng Thiên Khánh, Tổng Hà Thành, Quận Giang Thành, Tỉnh Hà Tiên (Nay gọi là xã Tân Khánh Hòa, Thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang)...Ông lớn lên trong bối cảnh đất nước đang thăng trầm vì chiến tranh bởi thực dân Pháp đô hộ.
Theo một số tài liệu, khoảng năm 1885, Ông đã tìm đến Bổn sư Ngô Lợi ở làng An Định, dưới chân núi Tượng (Nay là xã Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) để xin làm đệ tử.
Bổn sư Ngô Lợi là người sáng lập ra Giáo phái “Tứ Ân Hiếu Nghĩa”.
Năm 1887, quân Pháp tràn vào làng An Định đốt phá hết nhà cửa, chùa chiền. Bắt nhiều người tra tấn thật dã man...
Năm 1890, Đức Bổn sư Ngô Lợi qua đời, nên Ông phải về quê ở ẩn một thời gian.
Để tránh thực dân Pháp theo dõi, năm 1891, Ông cùng Dòng tộc, Gia quyến bằng các chiếc thuyền lớn đã vượt biển từ Hà Tiên vào đến Vũng Vằng (Nay là Phường Long Toàn, Thành phố Bà Rịa).
Ông định cư ở đó một thời gian và làm nghề bốc thuốc - chữa bệnh, làm muối - bán muối để sinh sống.
Thời gian sau, Ông lại về sinh sống tại Rạch Dừa (Nay là Phường 10, Thành phố Vũng Tàu).
Năm 1890, Ông tìm đến vùng Núi Nứa, là một ốc đảo hoang vắng, sình lầy, hoang vu và chọn nơi đây là nơi định cư lâu dài. Ông và những người thân cùng chung tay khai hoang, trồng lúa, khai thác gỗ tại Núi Dinh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đóng biển,.... Từ đó, vùng đầm lầy hoang vắng này đã biến thành những đồng ruộng bao la, màu mỡ, dân cư tìm đến ngày một đông nhất là sau nạn thiên tai lũ lụt miền Tây năm 1904. Ốc đảo hoang vắng ngày xưa đã trở nên ngày càng trù phú.....
Năm 1909, sau khi đã ổn định cư dân trên đảo, Ông liền xin phép chính quyền sở tại xây dựng nhà thờ Đức Khổng Tử (Nhà Thánh).
Năm 1910, được chính quyền chấp thuận Ông bắt đầu khởi công xây dựng Nhà Thánh, kế tiếp ông xây thêm Lầu Trời, Lầu Phật, Lầu Tiên, Lầu Cấm, Lầu Dài...
Sau đó, Ông xây tiếp 6 dãy phố, dành riêng cho cư dân mới đến có chỗ cư ngụ (Nay chỉ còn 5 dãy phố, 1 dãy đã bị thực dân Pháp đốt). Ngoài ra, Ông còn xây thêm trường học, khu chợ, nhà máy xay xát lúa. Ông đã biến 2 ha đất vùng hoang vu trở thành một Quần thể kiến trúc đồ sộ, nguy nga tráng lệ. Được mọi người vinh danh là Khu Nhà Lớn, riêng Ông mọi người tôn kính gọi Ông là “Đức Ông” hoặc “Ông Nhà Lớn”.
Núi Nứa hoang vu, đầm lầy ngày xưa, hiện chính là xã Long Sơn – Thành phố Vũng Tàu của chúng ta ngày nay!
Ông Trần mất năm 1935. Sau khi Ông qua đời, con cháu và bá tánh tôn thờ Ông Nhà Lớn tại chánh điện Nhà Thánh.
Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, nhưng Khu Nhà Lớn vẫn sừng sửng uy nghi nằm dưới chân Núi Nứa cho đến ngày nay...Là nơi Danh lam thắng cảnh – Tâm linh được nhiều người khắp nơi tìm đến cúng bái, chiêm ngưỡng.
Năm 1991, Khu Nhà Lớn được Nhà nước ta công nhận là “KHU DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA NHÀ LỚN (ĐỀN ÔNG TRẦN) xếp hạng cấp Quốc gia.”
Ông mang HỌ LÊ nhưng tại sao mọi người lại gọi là Ông Trần - Đạo Ông Trần?
Một số người chưa nghiên cứu sâu sắc về Đạo Ông Trần đã vội cho rằng Ông có tên Ông Trần là do hay cởi trần khai hoang và làm ruộng rẫy (?). Đó là ý niệm hoàn toàn sai lệch.
Thực tế, mọi người gọi Ông là Ông Trần xuất phát vì cách thờ tự đặc trưng của Ông: Trên bàn thở kỉnh lễ Ông Trần có chân dung (di ảnh) Ông Nhà Lớn và tấm “Trần điều” bọc quanh khung Di ảnh. Tấm Trần điều này biểu trưng sự thiêng liêng của Đấng tối cao. Màu đỏ thắm của tấm Trần điều có ý nghĩa là sự sống, là màu máu của chúng sinh. Thể hiện tính tương thân, tương ái, tính cộng đồng. Ở Việt Nam màu đỏ tượng trưng cho dòng máu Lạc Hồng của Người Việt luôn hướng về Tổ quốc với lòng yêu nước nồng nàn. Đó là TỨ ÂN phải trả : Ân Tổ Quốc - Ân Tam Bảo - Ân Cửu Huyền, Ông Bà Cha Mẹ - Ân Đồng bào nhân loại.
Do đó, trong quá trình tầm sư học đạo, khi đất nước lâm nguy, Ông luôn đứng vào hàng ngũ nghĩa quân chống giặc Pháp, bảo vệ đất nước.
Đạo của Ông sáng lập cũng thể hiện tâm tư, khí phách của người nghĩa quân Việt qua tấm trần điều. Cho nên, mặc dù Ông mang họ Lê, nhưng người dân nhất là khách tham quan chiêm bái Ông Nhà Lớn vẫn kính trọng gọi ông là Ông Trần và Đạo Ông Trần là vậy!
Nếu đi kỉnh bái tại Nhà khách cũ, chúng ta sẽ nhìn thấy bức hoành phi treo trên cao nằm uy nghi giữa Nhà khách có ghi 4 chữ Hán-Nôm là “Thái Lê sáng tạo” (Có nghĩa là Nhà Lớn do ÔNG TỔ HỌ LÊ sáng tạo).
Bức hoành phi ghi “Thái Lê sáng tạo”
Những từ ngữ đặc trưng của Đạo Ông Trần :
- “Dâng cúng” gọi là “dâng kỉnh”
- “Đường cát” gọi là “ngọt cát”
- “Đám ma” gọi là “đám xác”
- “Quan tài” gọi là “ Bao quan”
- “Xôi chè” gọi là “ Dẽo ngọt”
- ....
Đạo Ông Trần có phải là một tôn giáo ?
Đạo Ông Trần không phải là một tổ chức tôn giáo, mà “chỉ là tín ngưỡng họ tộc...” ( Trích trong Văn bản số 4585/ UB-VP của UBND tỉnh BR- VT ngày 29/12/2000).
Về hành chính, Ông Trần không khai đạo, nhưng tất cả mọi người vẫn tôn vinh ĐẠO ÔNG TRẦN vì Ông Nhà Lớn (Ông Trần) đã giáo huấn con cháu và bá tánh theo Ông Nhà Lớn “KỶ CƯƠNG – PHÉP NƯỚC – TU NHÂN – HỌC PHẬT” là “Tinh hoa hội tụ” từ các tôn giáo và giáo phái khác:
- Phật giáo
- Nho giáo
- Khổng giáo
- Giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương (Do Phật Thầy Tây An sáng lập).
- Giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa (Do Bổn sư Ngô Lợi sáng lập).
Đạo Ông Trần do được hội tụ những tinh hoa sáng đẹp và nhân văn đó, nên đã có những nét đẹp văn hóa độc đáo thể hiện trên phong thái của những người theo Đạo Ông Trần và thể hiện qua Quần thể kiến trúc - văn hóa độc đáo của Khu Nhà Lớn Long Sơn (Đền Ông Trần).
Một góc xã Long Sơn và Quần thể kiến trúc Nhà Lớn – Long Sơn (Đền Ông Trần)
NHỮNG NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA ĐẠO ÔNG TRẦN
● Trang phục Bộ bà ba đen, đi chân trần, râu tóc để dài:
Những người theo tín ngưỡng Đạo Ông Trần thường mặc trang phục là Bộ bà ba đen nhưng mang ý nghĩa rất là sâu sắc:
- Áo bà ba đen được thiết kế may như sau:
▪ Cổ tròn : tượng trưng cho việc người mặc phải biết làm tròn “Tứ ân phải trả”.
• 5 nút cài ở chính giữa tượng trưng cho 5 điều giáo huấn của Ông Nhà Lớn là : Nhân , Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
▪ Hai mảnh nối kết nhau bằng đường may ở sống lưng ở phía sau, cho nên chiếc áo bà ba trở thành tứ thân, có nghĩa là anh em bốn biển là 1 nhà nên phải đoàn kết, tương thân, tương ái lẫn nhau.
- Quần đen được may đáy nem, không có đáy. Có ý nghĩa răn dạy con cháu và bá tánh của Ông Nhà Lớn không nên có “Lòng tham không đáy”, không tham lam, sân si. Luôn giác ngộ, phải có điểm dừng trước mọi cám dỗ thế gian.
- Màu đen mang triết lý nhân văn sâu sắc về Tu Nhân, Học Phật, thể hiện đức tính cần cù tiết kiệm và giản dị. Bên ngoài cho dù có đen tối, nhưng bên trong tấm lòng vẫn không đen trong như nước và bình như nước, không làm trái đạo làm người, không vi phạm pháp luật.
Ngoài ra, khi có kỉnh lễ thì những người theo tín ngưỡng Đạo Ông Trần còn mặc thêm áo dài màu đen để đi dâng kỉnh.
Bà Lê Thị Đến trong bộ bà ba đen - Kế thừa Nội tộc tông chi 2 của Ông Nhà Lớn
▪ Đi chân đất:
Khi vào Khu Nhà Lớn mọi người đều phải đi chân đất. Thể hiện đức tính của người hiếu kính với Cha mẹ: “Đầu đội trời, chân đi đất” vì “Trời là cha, đất là mẹ”
• Để râu tóc dài:
Theo Giáo phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa thường dạy rằng : "Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất khả hủy thương”. Do đó, đàn ông trung niên của Đạo Ông Trần phải để râu tóc dài không được cắt.
Tóc dài sẽ được búi gọn lên cao. Khi đi kỉnh lễ thì quấn thêm khăn đen làm thành khánh nhỏ đội đầu. Trên người thì mặc thêm chiếc áo dài đen, thể hiện sự trang nghiêm- kính cẩn và luôn luôn ghi nhớ cái râu cái tóc là gốc con người. Đó là gốc thiện, phải làm điều thiện, điều lành, lánh xa điều ác, lợi mình hại người là không nên.
● Đám xác :
- Điểm đặc trưng khác biệt của Đạo Ông Trần là : Tất cả mọi người theo tín ngưỡng Đạo Ông Trần khi chết đem đi an táng đều dùng chung một Bao quan.
- Bao quan có kết cấu gồm hai bộ phận khép kín, có thể tách rời nhau là: nắp và tấm liệt.
▪ Phần nắp hình vòng cung sơn màu đỏ, làm bằng tre (lồ ô) dùng để đậy thi thể. Phía trước và sau nắp bao quan có trang trí một cụm hoa sen màu hồng vươn lên mặt nước gợn sóng. Thể hiện ý nghĩa nhân sinh quan, dân cư nơi đây khi qua đời, linh hồn của họ sẽ được siêu thoát
▪ Phần tấm liệt dùng để đặt thi thể (Thi thể đã được quấn vải liệm) lên trên và đóng nắp bao quan lại. Đưa thi thể đến nơi huyệt mộ.
* Một điều hết sức khác biệt với việc chôn cất bình thường là quan tài chứa thi thể sẽ được chôn luôn dưới huyệt mộ. Còn bao quan sau khi đã luân chuyển thi thể đến huyệt mộ, thì để thi thể lại dưới huyệt mộ, còn bao quan thì đem trở về hoàn trả lại cho Nhà Lớn để dùng chung cho những đám xác kế tiếp sau nữa.
Bao Quan ở Nhà Lớn
Sau khi hoàn tất việc chôn cất, mọi người đi đưa đám xác sẽ quay lại nhà người quá cố để tẩy uế. Những người trong nhà người quá cố sẽ đến trước bàn thờ gia tiên để kỉnh Trời, Phật, Ông Nhà Lớn và Ông Bà. Sau đó, tất cả dùng chung một bữa cơm đạm bạc nhưng thấm đậm tình thân, nghĩa trọng.
Thêm điểm đặc biệt nữa là đám xác ở đây là không nhận tiền phúng điếu, quy trình an táng chỉ 24 giờ, không coi ngày giờ và xả tang tại chỗ (Không để tang ba năm).
Qua đó, chúng ta thấy rõ sự đoàn kết của cộng đồng người theo Đạo Ông Trần ở phong tục đám xác là: “Sống đồng tịch, đồng sàng, chết đông quan, đồng quách”. Lúc còn sống, tự nguyện quy tụ về Nhà Lớn để cùng nhau sinh hoạt tín ngưỡng, cùng ăn, cùng ngủ, đoàn kết, yêu thương lẫn nhau. Khi về nhà, cùng gia đình, xã hội thì phải chung lưng đấu cật, tương trợ, đùm bọc lúc hoạn nạn, khó khăn không phân chia giai cấp sang hèn, giàu nghèo...Đến khi chết, sử dụng chung một Bao Quan.
Đám xác của Đạo Ông Trần cũng thể hiện quan niệm sống của con người trong trời đất:
Trời là cha, đất là mẹ. Khi sống thì phải làm tròn đạo hiếu, Tứ Ân Phải Trả vì vậy, đầu đội trời chân đi chân đất. Khi chết, thân xác về với lòng đất mẹ, còn linh hồn sẽ được siêu thoát về cõi Trời, Phật.
☆ Đạo ông Trần, giáo huấn con cháu và bá tánh luôn phải “Tứ ân phải trả”. Làm người phải luôn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Là con cháu và bá tánh của Ông Nhà Lớn muốn đạt đạo thì phải rèn luyện, thực hành
Cổng Tam Quan
* Bát Nhẫn (8 điều nhẫn):
“ Nhẫn năng xử thế nhị nhơn hiền
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên
Nhẫn giả hương lân hòa ý hỷ
Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên
Nhẫn tâm nhựt nhựt hưởng an lạc
Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền
Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự
Nhẫn thành phú quới vĩnh miên niên”
(Sấm truyền của Phật Thầy Tây An)
* Và Lục Hòa (6 điều hòa)
• Thân hòa
• Miệng hòa
• Ý hòa
• Giới lục hòa
• Hiểu biết hòa
• Lợi hòa
(Lục Hòa của Nhà Phật)
Muốn đạt được Nhân Nghĩa Nhẫn Hòa thì phải giữ tâm trong sáng, giàu mà bất nghĩa thì không màng, nghèo mà giữ nhân nghĩa, được thể hiện qua câu đối liễn tại Cổng Nhà Hội.
- “ Phú Quý bất dâm bần tiện lạc
Nam nhi đáo thử thị hào cường”
(Phú quý không tham, nghèo hèn cũng thỏa
Nam chi được đến thế, cũng hào cường)
Cổng Nhà Hội
NHỮNG NÉT ĐẸP VĂN HÓA TRONG TÍN NGƯỠNG CỦA KHU DI TÍCH NHÀ LỚN LONG SƠN (ĐỀN ÔNG TRẦN)
● Phong tục ngày Tết :
- Dựng và hạ nêu trong ngày Tết :
Theo quan niệm của Người Việt xưa, cây nêu được gọi là cây vũ trụ. Hằng năm, cứ vào ngày 30 tháng chạp, Nhà Lớn lại trồng hai cây nêu: Một cây ở trước nhà Lầu Cấm, và một cây ở Nhà Hội.
Để chuẩn bị cho việc trồng cây nêu này, các Hương Chức và bà con trong Đạo phải cất công lên rừng tìm từ ngày 17 tháng chạp. Đến ngày 30 tháng chạp sau khi kỉnh hương Ông Nhà Lớn thì bắt đầu dựng nêu.
Cây nêu được chọn dựng thực chất là cây tre nứa, đã được cắt cành sạch sẽ phía bên dưới, phía trên ngọn chừng 2-3 m thì để lại cành lá. Phần giữa cây nêu sẽ treo “Bùa bát quái” bằng gỗ, gồm 4 thanh ngang , 5 thanh dọc đan sọc lẫn nhau như ô cờ, rồi đem sơn màu đỏ, gọi là “Bùa yểm” ma quỷ không đến quấy phá. Phía bên cạnh dưới “Bùa yểm” này là một chiếc giỏ nhỏ đan bằng tre, bên trong gồm có: 1 bánh ít+ 1 trái quýt + 1 đôi vàng bạc (mã) + 3 miếng trầu có bôi vôi kèm thuốc + 3 miếng cau.
Cây nêu dựng từ 30 tết, đến ngày mùng 07 tết thì hạ nêu
Trong lễ hạ nêu, sau khi kỉnh lễ xong, các Hương Chức sẽ hạ cây nêu xuống. Một Hương Chức được chọn lựa sẽ dùng rựa chặt phần ngọn để lại cho mọi người cùng nhau thỉnh về nhà để nấu nước uống với cầu mong được khỏe mạnh.
Nếu người chặt chỉ một nhát là đứt lìa hai phần của cây nêu thì mọi người sẽ vui mừng, vỗ tay tán thưởng. Vì như thế sẽ là điềm tốt, báo hiệu năm mới mọi công việc sẽ suôn sẻ, thuận buồm xuôi gió!
Phần bên dưới còn lại của cây nêu sẽ đem về Nhà Lớn đan làm đồ dùng trong Nhà Lớn như nia, rổ.
Hình dựng nêu và hạ nêu
Tết đến, trồng cây nêu trước nhà, là thông điệp báo hiệu những ngày vui xuân đã đến, mọi người sau một năm vất vã lao động cực nhọc, rồi sẽ hưởng trọn niềm vui của những ngày nghỉ tết. Cây nêu biểu tượng cho vị thần giữ cửa ngày xuân, xua đuổi những điều không vui, mang điều lành, may mắn và vui vẻ cho mọi người trong những ngày đầu năm.
- Lễ Khai Sơn Phạt Mộc :
Cũng vào ngày mùng 7 Tết nguyên đán, song song với Lễ hạ nêu, Nhà Lớn cũng tổ chức “Lễ khai sơn phạt mộc”.
Lễ khai sơn phạt mộc sẽ tiến hành trước Lễ hạ nêu. Cả hai lễ cùng tiến hành vào buổi sáng ngày mùng 7 Tết, nên có tên gọi chung là “Lễ khai hạ”
Trong “Lễ khai sơn phạt mộc” ở Nhà Lớn, bàn thờ sẽ được đặt giữa trời, gần Lầu Cấm và dãy phố xanh. Sau khi kỉnh lễ thật trang nghiêm, một người được chọn sẽ dùng rựa chặt cây mộc đã được dựng trước đó, tại góc trước bên trái của bàn thờ
Lễ khai sơn phạt mộc
Lễ khai hạ vào ngày mùng 7 Tết, là thông điệp báo hiệu những ngày vui xuân đã hết, mọi người lại chuẩn bị bắt tay vào công việc thường nhật của năm mới. Riêng cộng đồng Nhà Lớn đa phần sinh sống bằng nghề nông, và làm mộc, thì việc tổ chức “Lễ khai hạ” là một điểm nhấn, một mốc thời gian cho mọi người chuẩn bị cho mùng 8 Tết bắt tay vào công việc của mình phấn khởi hơn, đạt được kết quả tốt hơn năm cũ.
- Viết đối liễn ngày Tết :
Cứ mỗi dịp xuân về, Tết đến, ông bà ta ngày xưa lại viết câu đối liễn mới để trang trí nhà cửa, chúc mừng cùng nhau. Thế nhưng ngày nay, việc viết đối liễn ngày tết đã bị mai một, chỉ còn một số nơi tổ chức viết thư pháp ngày xuân cho phong phú chương trình lễ hội mừng xuân mà thôi!
Nhưng ở Nhà Lớn – Long Sơn tập tục văn hóa này, vẫn được bảo tồn một cách triệt để gần 100 năm nay. Thật đáng trân trọng!
Hình câu đối tại tầng dưới Lầu Cấm.
Cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, Lễ Trùng Cửu (9/9) hay ngày vía Ông Trần (20/2 ÂL). Nhà Lớn thường tổ chức viết đối liễn bằng chữ Hán – Nôm. Chữ sẽ viết bằng mực đen trên giấy hồng điều. Riêng những câu đối liễn, hoành phi được giữ nguyên vẹn chạm khắc sơn son thiếp vàng trên gỗ trong nội thất của Khu Nhà Lớn hay đắp xi măng nổi trên các cột cổng Tam quan, cổng Nhà Hội,…được Nhà nước công nhận là Di sản Hán Nôm.
Việc viết đối liễn này ngoài ý nghĩa mang đến những câu chúc an lành, còn mang ý nghĩa giáo dục, giá trị nhân văn sâu sắc. Người viết đối liễn phải qua một quá trình học tập và rèn luyện tâm trí. Do đó, họ sẽ thấm nhuần về những điều giáo huấn của Ông Nhà Lớn về : Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín - Nhẫn, Hòa và Tứ Ân Phải Trả mà rèn luyện tu thân, trở thành người tốt giúp ích cho cộng đồng Đạo Ông Trần nói riêng và xã hội Việt Nam nói chung!
7 Hình ảnh bộ bàn ghế Bát Tiên
● Kiến trúc của Khu Nhà Lớn mang đậm tính truyền thống của dân tộc Việt Nam và có giá trị lớn về lịch sử dân tộc
Đa phần kiến trúc xây dựng ở khu Nhà Lớn là những tòa nhà bằng gỗ, mái lợp ngói, sàn lót gạch bông. Đây là kiểu kiến trúc mang đâm nét truyền thống dân tộc, phản ánh quan niệm vũ trụ quan Nho giáo. Theo ý niệm của Kinh Dịch là: Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh ra Bát Quái.
Nội thất Nhà Lớn, còn bài trí những tấm hoành phi, sơn son thiếp vàng bằng chữ Hán- Nôm liên quan đến lịch sử vùng Thất Sơn như: “Bửu sơn kỳ hương”, “Linh Sơn Thánh Mẫu”, những câu đối liễn về “Tứ ân hiếu nghĩa”..vv..
Ngoài ra, ở Nhà Lớn còn giữ gìn bộ bàn ghế Bát tiên là Di vật của Vua Thành Thái (1876-1954) khi vị vua này bị thực dân Pháp an trí tại Vũng Tàu (1907 – 1919) và sau đó chủ sự người Pháp bán lại cho Ông Nhà Lớn.
● Thực vật trồng trong Khu Nhà Lớn lấy ý nghĩa sâu sắc từ những chuyện cổ tích Việt Nam để giáo dục con cháu Nhà Lớn
Ngoài những cây kiểng được chăm chút cẩn thận trồng trong nội khu, Nhà Lớn còn có khu vườn trồng trầu, cau dùng để dâng kỉnh Ông Nhà Lớn và cây khế chua dùng để chùi lư đồng mỗi khi lễ tết.
Điều đặc biệt là Ông trồng trầu cho quấn leo cây cau, hàm chứa ý nghĩa về sự tích Trầu Cau, nói lên tình vợ chồng, nghĩa anh em phải luôn giữ vẹn sao cho tròn đạo làm người
Hình cây cau và lá trầu trong vườn
Nhắc đến cây khế, người Việt Nam ta sẽ liên tưởng đến sự tích “Ăn khế trả vàng” . Ông trồng cây khế như muốn nhắc nhở con cháu và bá tánh theo Ông Nhà Lớn rằng: Làm người, phải coi trọng tình nghĩa, không nên quá tham lam, kẽo rước họa vào thân bởi vì tham thì phải thâm. Là con người thọ ân thì phải biết trả nghĩa, cho dầu người thi ân không cần báo đáp. Phải trả ân nghĩa cho người ban ân, để không hỗ thẹn thua loài cầm thú, quạ đen!
Tuy không phải là một tổ chức tôn giáo nhưng Đạo Ông Trần được xem là Tinh hoa hội tụ của những tôn giáo và giáo phái Việt Nam. Đạo Ông Trần và Khu Di tích Lịch sử - văn hóa Nhà Lớn (Đền Ông Trần) đã đóng góp tích cực cho việc bảo vệ, phát huy di sản văn hóa, truyền thống Giáo Dục – Nhân Nghĩa và Tín Ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Nhà Lớn - Long Sơn đã được Nhà Nước Việt Nam công nhận là Khu Di tích lịch sử - Văn hóa, xếp hạng cấp Quốc gia năm 1991. Vì thế, nếu là con cháu của Ông Nhà Lớn, cùng những người theo Đạo Ông Trần, hay những người dân bình thường, nhất là Kế thừa nội tộc Nhà Lớn, và Hương Chức (Kỳ Lão) Nhà Lớn đều cần phải có ý thức- trách nhiệm giữ gìn - bảo vệ và phát huy NHỮNG NÉT ĐẸP VĂN HÓA - LỊCH SỬ - DANH LAM THẮNG CẢNH QUÝ GIÁ CỦA NHÀ LỚN-LONG SƠN (Đền Ông Trần).
Vũng Tàu, ngày 18 tháng 02 năm 2024
Ánh Tuyết – BTV TCTTX (Biên soạn)